Thứ Sáu, 8 tháng 6, 2012

AINS-NSAID là thuốc gì?


AINS và NSAID là viết tắt của cụm từ Anti-Inflammatoire Non Steroides (tiếng Pháp) và Non Steroidal Anti-inflammatory Drugs (tiếng Anh), đều có nghĩa là thuốc chống viêm không steroid. Viết tắt bằng tiếng Việt là CVKS hoặc CVPS. Tác dụng của chúng là chống viêm, hạ sốt, giảm đau, chống ngưng kết tiểu cầu.

Người ta viết như thế (AINS - NSAID) để phân biệt với thuốc chống viêm khác là glucocorticoid (thuốc có nhân sterol). Viết tắt của loại thuốc này là AIS và SAID.

Thuốc AINS có nhiều dẫn xuất: 
Salicylic (như aspirin), 
pyrazolon (như phenylleutazon),
 indol (như indomethacin), 
oxicam (như piroxicam), 
prapionic (như ibuprofen),
 phenylacetic (như voltaren), 
anthranilic (như acid niflumic). 
Những năm gần đây xuất hiện các thuốc mới: celocoxib, rofecoxib, nimesulid, meclofenamic acid, sulindac và meloxicam [gọi chung là nhóm thuốc coxib _ức chế chuyên biệt cyclooxygenase 2 là men xúc tác tạo ra prostaglandin gây viêm chứ không ảnh hưởng đến cyclooxygenase 1 (là yếu tố xúc tác sản xuất prostaglandin che chở niêm mạc dạ dày), do đó thuốc này ít gây ra tác dụng phụ loét dạ dày, tá tràng, song một thời gian sau lại phát hiện nó gây tác dụng phụ trên tim mạch, có thể dẫn đến tử vong, vì vậy khi kê đơn loại thuốc này phải rất thận trọng.]

Các thuốc này đều có tác dụng phụ chung là gây rối loạn tiêu hóa (nôn, buồn nôn, khó tiêu, thậm chí gây chảy máu tiêu hóa) nên phải uống vào giữa bữa ăn hoặc lúc no. Nó cũng gây bệnh ngoài da với hội chứng Stevens - Johnson và Lyell (hoại thư biểu bì) và một số tác dụng phụ khác.
Dẫn xuất pyrazolon có tác dụng chống viêm, hạ sốt, giảm đau rất tốt nhưng có thể gây mất bạch cầu hạt, rất nguy hiểm (hiếm gặp), đã được khuyến cáo không nên dùng nữa. Aspirin gây bệnh hen và polip mũi với người mẫn cảm, những người có cơ địa dị ứng không nên dùng.


Ghi chú
Hiện nay các thuốc kháng viêm không steroid được bào chế thành 4 dạng là uống, tiêm, thuốc dạng đạn để đặt vào hậu môn, kem, cồn xoa bóp. Thuốc có khả năng hấp thu tốt nên thông thường người ta vẫn dùng dạng uống, còn dạng tiêm ít dùng, chỉ sử dụng trong bệnh khớp như viêm khớp dạng thấp, các chứng viêm không phải thấp khớp, trong giảm đau. Để tăng cường tác dụng kháng viêm và giảm đau còn ra đời các loại thuốc phối hợp như viên alaxan (gồm ibuprofen và paracetamol), hay viên dolor – nisina (chứa aspirin, paracetamol và cafein).
Tác dụng phụ của thuốc
Thông thường thuốc gây viêm loét dạ dày, tá tràng, có khi gây xuất huyết. Do thuốc loại này ức chế sự tổng hợp prostaglandin, đặc biệt là prostaglandin E nên đã làm giảm lớp chất nhày có tác dụng bảo vệ niêm mạc dạ dày, sinh viêm loét. Mặt khác, ta thấy các phân tử của thuốc loại này có độ tan thấp, mà lại kích ứng biểu mô tại chỗ rất mạnh nên nguy cơ viêm loét niêm mạc dạ dày, tá tràng càng cao. Tác dụng này không những chỉ xảy ra qua đường uống là chủ yếu, mà còn xảy ra khi dùng bằng đường tiêm, đặt thuốc ở trực tràng, bôi thuốc trên diện da rộng.
Để tránh tình trạng các hoạt chất của thuốc kích ứng niêm mạc dạ dày, người ta đã bào chế ra viên thuốc có tạo màng tan ở ruột như viên aspirin pH8 (aspan pH8, aspral pH8...), do vậy những loại viên này để bảo tồn tác dụng ấy khi uống không được nhai hay bẻ đôi hoặc cắt viên thuốc ra nhiều phần mà phải nuốt nguyên cả viên. Dạng thuốc này cần uống xa bữa ăn và nên uống với nhiều nước.
Ngược lại, nếu dùng viên thường (không có màng bao đặc biệt) thì cần uống thuốc vào bữa ăn hoặc ngay sau khi ăn cơm, cũng cần uống với nhiều nước (khoảng 200ml) mỗi lần. Loại thuốc này  có thể nhai nát hoặc cho vào cốc nước chờ viên thuốc rã tan để khi uống giúp thuốc trôi nhanh xuống ruột. Trên thị trường còn loại viên sủi hoặc gói bột dạng cốm pha trong nước thành dung dịch rồi uống (aspegic: acetyl salicylat DL – lysine).
Một điều cần chú ý là khi sử dụng thuốc kháng viêm tuyệt đối không được uống rượu vì sẽ gây chảy máu dạ dày. Loại thuốc này cũng dễ gây dị ứng, hen suyễn và có thể xảy ra dị ứng chéo.
Một số trường hợp không được dùng các loại thuốc này (tức chống chỉ định): những người có tiền sử viêm loét dạ dày - tá tràng, chảy máu dạ dày, người mắc sốt xuất huyết hay đang xuất huyết (như phụ nữ đang băng huyết hay rong kinh), tiền sử hen phế quản, cơ địa dị ứng. Tránh dùng cho phụ nữ đang mang thai (nhất là 3 tháng cuối) vì sẽ gây độc cho thận và tim phổi của thai nhi, hoặc phụ nữ đang cho con bú.
Không nên phối hợp các thuốc kháng viêm không steroid với nhau hoặc với thuốc corticoid hay với các thuốc chống đông máu.
Đối với những người có nguy cơ viêm loét ở đường tiêu hóa, cần uống thêm thuốc bảo vệ dạ dày như các thuốc kháng H2 hoặc sucralfat để làm giảm tần số loét tá tràng, dùng các thuốc kháng H2 và ức chế bơm proton hoặc misoprostol để giảm loét dạ dày tá tràng. Không tiêm thuốc kháng viêm không steroid vào khớp hoặc vào các huyệt đạo. Nếu dùng thuốc tiêm để tiêm hay truyền thì không dùng quá 3 ngày. Khi uống thuốc kháng viêm không steroid kéo dài cần phải theo dõi chặt chẽ để kịp thời phát hiện những tác dụng phụ xảy ra. Các dấu hiệu biểu hiện không bình thường khi sử dụng thuốc như ở đường tiêu hóa: đau bụng, buồn nôn, phân đen; tại da: nổi mề đay, ngứa; ở hô hấp: lên cơn hen, khó thở, bí tiểu tiện, mặt phù... cần phát hiện sớm và kịp thời thông báo cho bác sĩ.